Lắng đọng nhân cách đất Quảng
100 năm ngày mất Tiểu La Nguyễn Thành (1911-2011):
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chí sĩ Tiểu La Nguyễn Thành giữ vị trí trọng yếu suốt quá trình chống Pháp và đồng sáng lập Duy Tân hội, phong trào Đông du. Dù hai phong trào này kéo dài không lâu nhưng dư âm đến nay vẫn còn ngân vọng…
Tiểu La trong mắt các chí sĩ
“Niên biểu Phan Bội Châu”(*) nguyên tác chữ Hán, sau đó chính cụ dịch sang tiếng Việt, có một số trích đoạn liên quan đến Tiểu La. Mùa xuân năm Quý Mão (1903), cụ Phan vào phủ Thăng Bình gặp cụ Nguyễn, mật thảo kế hoạch thành lập Duy Tân hội, qua đó cụ Tiểu La đề xuất chủ trương mời Kỳ ngoại hầu Cường Để tham gia hội để thu phục nhân tâm. Niên biểu viết: “Tôi lấy làm phải lắm, liền từ biệt trở ra Kinh. Sau đó tôi lại vào Quảng Nam cáo với Tiểu La, hẹn nhau ngày tháng 2 năm Quý Mão hội kiến Kỳ ngoại hầu Cường Để ở nhà quan Bố chánh Phạm Quý Thích”.
Từ Duy Tân hội đến phong trào Đông du, cụ Phan viết: “Tiểu La với tôi thì hết sức vào việc xuất dương cầu viện. Cần thứ nhất có hai việc như sau: 1/- Hành phí; 2/- Nhân tài ngoại giao và viên hướng đạo. Tiểu La bàn với tôi rằng: Về việc kinh phí chỉ mình tôi với Sơn Tẩu (Cụ Ô Gia Đỗ Đăng Tuyển) biện được xong. Ngoại giao nhân tài hiện nay thật khó, đã không người khác tất phải anh đi, còn hướng đạo viên thì tôi tính sẵn đã lâu ngày. Gánh cái gánh người đưa đường, anh không phải lo không có xe chỉ nam nữa”. Một đoạn khác: “Việc xuất dương thì tôi với Tăng Bạt Hổ, Đặng Tử Kính gánh lấy, còn công cuộc nội đảng thì toàn ủy cho Tiểu La và Ngư Hải (Đặng Thái Thân). Thương hoạch xong, tôi từ biệt Tiểu La. Tôi với ông Tăng thì ngày ấy thành ngày vĩnh quyết với Tiểu La. Than ôi, bạn sống thác chẳng bao lăm người, bể trời quạnh, cõi đêm mưa gió, thoảng năm ba tiếng hồn véo von, đau đớn biết dường nào!”.

Bút tích đặc tả quá rõ ràng, có giá trị lịch sử, chuẩn xác tuyệt đối cho thấy vị trí của Tiểu La với Duy Tân hội và phong trào Đông du là trọng yếu, không thể xem Tiểu La chỉ là sáng lập viên.
Dấu tích và lịch sử
Thân phụ Tiểu La là cụ Nguyễn Trường – Bố chánh sứ tỉnh Bình Định, hàm Tham tri thời Tự Đức. Lúc cụ Nguyễn Trường mất, cụ Tiểu La 12 tuổi đã cáng đáng việc đưa thi hài cha từ Bình Định về an nghỉ tại quê nhà, sau đó cải táng về Núi Đất (xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn). Thời phong kiến, việc có con trai nối dõi tông đường được chú trọng. Cụ Tiểu La có 2 vợ, vợ cả hiếm muộn con, cưới vợ kế cho chồng. 11 năm sau, vợ cả sinh 2 con trai, còn vợ kế có 8 người con, 5 trai, 3 gái. Hậu duệ kẻ mất người còn đang sinh sống tại Thăng Bình và các tỉnh phía Nam. Đặc biệt, khi đến thăm đại tá nghỉ hưu Phan Thiệu Cơ – nguyên Phó Tổng biên tập Báo Quân Giải Phóng (1968-1975), cháu nội cao niên nhất của cụ Phan Bội Châu tại nhà riêng ở quận Bình Thạnh (TP.Hồ Chí Minh), chúng tôi nhận thấy rằng ngoài việc vọng bái, thờ phụng cụ Phan Bội Châu còn có tủ thờ cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Tiểu La. Sinh tiền, cụ Phan (SN 1867), cụ Nguyễn (SN 1863) chung lòng vì đại cuộc, thân mật gọi nhau bằng “anh” và xưng “tôi”. Ngoài ra về gia thất, hai cụ còn có điểm chung: vợ cả hiếm muộn con nên cưới vợ kế.
Năm 1908, tại huyện Đại Lộc nổ ra cuộc kháng thuế cự sưu. Ngọn lửa đấu tranh bùng phát dữ dội toàn tỉnh rồi lan sang Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, truy bắt các chí sĩ yêu nước. Cụ Tiểu La bị bắt, bị kết án 9 năm biệt xứ, đày Côn Đảo. Cụ mất tại đây vào ngày 11.11.1911, hưởng dương 48 tuổi (1863-1911). Các bạn tù an táng cụ tại bãi Hàng Dương, dưới chân mộ có cục gạch khắc dòng chữ “1911 – Tiểu La”. 46 năm sau (1957), hậu duệ đưa hài cốt của cụ về cải táng ở thôn Quý Thạnh (xã Bình Quý, huyện Thăng Bình) nhờ tìm được viên gạch làm dấu nói trên. Xin dẫn lời nhà nghiên cứu sử Trần Viết Ngạc: “Khoảng năm 1982, trong một lần về dự hội thảo tại Quảng Nam, thầy ghé mộ Tiểu La thấy một mô đất thấp, không có bia, 2 viên đá xanh làm dấu ở trên và dưới chân mộ; còn tấm tôn ghi ký danh tù nhân đã chết và viên gạch lưu dấu mộ Tiểu La đem từ Côn Đảo về nằm lăn lóc bên cạnh. Năm 1984 thầy về thì mộ vẫn mộ đất, đã có tấm bia nhỏ nhưng khắc 2 chữ Côn Lôn sai, tôi đồ rằng các em chăn dắt trâu bò chơi nghịch…”.
Năm 1997, mộ Tiểu La được UBND huyện Thăng Bình đầu tư kinh phí tôn tạo, trùng tu, trong khuôn viên 104m2, trở thành di tích lịch sử mang ý nghĩa giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Thế nhưng, một lần nữa bia khắc sai chữ “thi Hương” thành “thi Hội”. Tôi thầm nghĩ thầy Trần Viết Ngạc xem nhầm, nhưng xác minh đúng là có việc đáng tiếc này. Năm 1885, cụ Tiểu La ra Huế dự thi Hương, nhưng do vụ binh biến kinh thành Huế, kỳ thi không tổ chức được. Cụ về quê lo việc nước, không màng chuyện khoa bảng. Cụ chưa đỗ cử nhân, không thể khắc vào bia chữ “thi Hội” được. Có lẽ nên khắc phục để tránh bia ghi một đàng, sử sách ghi một nẻo. Cũng nên lưu giữ viên gạch và tấm tôn từ Côn Đảo đưa về, dẫu gì cũng là di tích nhưng không rõ hiện nay có còn?
Nguyễn Tam Phù Sa
Nguồn: Báo Quảng Nam Online